Cần sớm hình thành thị trường năng lượng cạnh tranh

23/12/2016  
32

Nhiệm vụ lớn cho ba trụ cột năng lượng

Ngày 25-10-2007 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 18-NQ/TW “về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050”, theo đó Chính phủ đã đề ra chiến lược phát triển năng lượng từ nay đến năm 2020 tầm nhìn tới năm 2050 với các mục tiêu cụ thể:

Với ngành than, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ giao cho ngành than từ năm 2011 đến 2015 ngành than phải sản xuất được 55 triệu tấn than sạch/ năm, xây dựng được 28 mỏ mới (công suất một mỏ 2 triệu đến 2,5 triệu tấn/năm) mở rộng 61 mỏ cũ đảm bảo đến năm 2020 ngành than phải cung cấp được trên 76 triệu tấn than/năm để phục vụ cho ngành điện và các ngành kinh tế khác.

Với ngành dầu khí, theo Kết luận số 41 của Bộ Chính trị từ nay đến năm 2025 ngành dầu khí phải khai thác được 40 triệu tấn dầu quy đổi/năm, tích cực phát triển các mỏ khí, mỏ dầu ở trong nước cùng với việc liên doanh liên kết với nước ngoài để đảm bảo sản lượng.

Ba ngành kinh tế nêu trên là ba trụ cột, ba mũi nhọn hàng đầu đảm bảo cung cấp đủ năng lượng cho nền kinh tế xã hội. Để đáp ứng nhu cầu phát triển lâu dài bền vững theo chiến lược của Chính phủ đề ra, ngành năng lượng Việt Nam đòi hỏi một lượng vốn rất lớn trên vài trăm tỷ USD cho kế hoạch đầu tư xây dựng từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050.Với ngành điện, từ nay đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2050 phải xây dựng rất nhiều nhà máy phát điện (thuỷ điện, nhiệt điện than, nhiệt điện khí, thủy điện tích năng, điện hạt nhân và các dự án năng lượng khác như điện gió, mặt trời .v..v); theo quy hoạch điện VII đến năm 2020 cả nước phải đạt được 75.000 MW điện, sản lượng điện 330 tỷ đến 360 tỷ kWh/năm, lúc đó sản lượng điện đầu người tăng lên trên 3.000 kWh/năm mới có thể đạt tiêu chí một nước công nghiệp phát triển. Song song với phát triển nguồn điện, phải tập trung phát triển lưới điện đồng bộ từ hệ thống truyền tải đến hệ thông phân phối.v.v…để đưa điện đến hộ tiêu dùng.

Ngành năng lượng do vậy rất cần thiết phải nghiên cứu xây dựng các mô hình thị trường, chính sách giá cả và cơ chế quản lý của Nhà nước phù hợp với từng loại sản phẩm năng lượng ở các giai đoạn khác nhau.

Tính đến nay, đa số các ngành trong nền kinh tế Việt Nam đã và đang chuyển đổi sang kinh tế thị trường, riêng ngành năng lượng bao gồm các sản phẩm: dầu khí, than và điện thuộc sự quản lý của ba tập đoàn kinh tế nhà nước: Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Than-Khoáng sản và Tập đoàn Điện lực Việt Nam vẫn còn theo sự chỉ đạo của Nhà nước. Xây dựng thị trường năng lượng cạnh tranh đối với nước ta là rất mới mẻ và phức tạp, nên đòi hỏi phải nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn vận dụng kinh nghiệm của các nước trên thế giới.

Thị trường điện: Lộ trình hình thành thị trường cạnh tranh cần sớm hơn

Thị trường điện cạnh tranh, được xem là một nội dung chiến lược phát triển dài hạn của ngành điện Việt Nam, đã thể hiện trong Luật Điện lực năm 2005 và được cụ thể hóa theo Quyết định số 26/2006/QĐ-TTg ngày 26/01/2006 và được thay thế bằng Quyết định số 63/2013/QĐ-TTg ngày 08/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định về lộ trình, các điều kiện và cơ cấu ngành điện để hình thành phát triển các cấp độ thị trường điện lực tại Việt Nam.

Theo các quyết định trên, thị trường điện Việt Nam sẽ hình thành và phát triển theo 3 cấp độ: Thị trường phát điện cạnh tranh (cấp độ 1) thực hiện đến hết năm 2014. Thị trường bán buôn điện cạnh tranh (cấp độ 2) từ 2015-2016 sẽ thực hiện thị trường bán buôn điện cạnh tranh thí điểm; giai đoạn 2017-2021 sẽ thực hiện thị trường bán buôn điện cạnh tranh hoàn chỉnh. Thị trường bán lẻ điện cạnh tranh (cấp độ 3) dược thực hiện trong giai đoạn 2021-2023.

Tuy nhiên, lộ trình như trên phải trải qua 3 cấp độ từ năm 2005 đến sau 2023 là quá dài, các cấp độ thực hiện không có sự đan xen lẫn nhau, xong cấp độ này mới chuyển sang cấp độ khác. Ngay cấp độ một bắt đầu từ 2005 nhưng phải tới 2011 mới vận hành thí điểm. Như vậy phải trên 20 năm thực hiện, đến sau năm 2023 Việt Nam mới có được thị trường điện cạnh tranh hoàn chỉnh.

Nên chăng có thể xem xét khả năng các cấp độ thực hiện có sự đan xen lẫn nhau, thường xuyên rút kinh nghiệm và hoàn thiện để rút ngắn thời gian.

Bên cạnh đó, việc quản lý hoạt động thị trường điện của Nhà nước còn hạn chế về việc xây dựng mô hình, tổ chức, cơ chế hoạt động và giao dịch giữa các đối tượng mua bán điện trên thị trường. Sau gần 10 năm nghiên cứu và thực hiện thị trường phát điện cạnh tranh vẫn chưa có mô hình đúng theo nguyên tắc thị trường cạnh tranh: hiệu quả, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, không phân biệt đối xử giữa các đối tượng tham gia thị trường điện lực.

Hiện tại, EVN là đơn vị chiếm phần chi phối lớn nhất trong khâu phát điện. Điều 19 của Luật Điện lực quy định phải có đơn vị điều hành giao dịch thị trường điện lực, chịu trách nhiệm điều hoà, phối hợp hoạt động giao dịch mua bán điện và dịch vụ phụ trợ trên thị trường điện lực. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có đơn vị này, mà đang do EVN điều hành.

Thị trường dầu khí: Cơ chế bù giá làm ảnh hưởng đến tính chủ động của doanh nghiệp

Bao gồm các sản phẩm dầu thô, khí đốt và xăng dầu các loại…; nhưng ở đây chỉ đề cập đến thị trường xăng dầu, là mặt hàng được quan tâm lớn hiện nay.

Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hoạt động phân phối xăng dầu cũng đã trải qua các giai đoạn tương ứng, từ phương thức cung cấp theo định lượng, áp dụng một mức giá thống nhất do Nhà nước quy định đến mua bán theo nhu cầu, thông qua hợp đồng kinh tế.

Hiện nay, tập đoàn xăng dầu Petrolimex đang chiếm hơn 50% thị phần, cộng với PV Oil, Saigon Petro. Ba đơn vị này chiếm trên 80% thị phần trong cả nước, làm nhiệm vụ sản xuất, nhập khẩu, phân phối, bán lẻ. Hệ thống này đang được vận hành đã hạn chế được thế độc quyền nhập khẩu thuộc về một số đơn vị trước đây, tạo ra thế đứng mới cho các doanh nghiệp lần đầu tiên tham gia nhập khẩu và khẳng định ưu thế vượt trội của các đơn vị được đầu tư hoạt động theo cơ chế thị trường. Đang từng bước thiết lập một thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp qua đó hình thành chi phí xã hội cần thiết cho hoạt động kinh doanh xăng dầu và mức lợi nhuận hợp lý.

Tuy nhiên, cơ chế bù giá được duy trì quá lâu đang làm mất đi tính chủ động của doanh nghiệp, giảm động lực tiết giảm chi phí, doanh nghiệp không có tích luỹ cho đầu tư phát triển, mất cơ hội đầu tư, giảm sức cạnh tranh và người tiêu dùng không có ý thức tiết kiệm. Đồng thời công tác quy hoạch phát triển hệ thống kinh doanh xăng dầu không rõ ràng về thẩm quyền và trách nhiệm, thiếu sự kiểm soát dẫn đến đầu tư không đồng đều, manh mún gây lãng phí xã hội; việc bình ổn thị trường ở những vùng sâu, vùng xa gặp nhiều khó khăn...

Thị trường than: Than nhập khẩu đang tăng lên

Cho đến nay, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) là nhà cung cấp than chủ yếu trên thị trường than trong nước (chiếm tới 98%) và là nhà xuất khẩu than duy nhất. Vừa qua, TKV có Tổng công ty Đông Bắc - một công ty con được tách ra khỏi TKV và trở thành tổng công ty độc lập trực thuộc Bộ Quốc phòng.

Theo quy định của Pháp lệnh giá (2002) thì than là mặt hàng không thuộc diện bình ổn giá cũng như không thuộc diện Nhà nước định giá. Việc định giá than do tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh than thực hiện theo cơ chế thị trường.

Vấn đề tạo lập thị trường than mãi đến năm 2008 mới chính thức được đề cập trong “Chiến lược phát triển ngành than Việt Nam giai đoạn đến năm 2015, định hướng đến năm 2025” và Quyết định số 60/QĐ-TTg ngày 09/1/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến 2020, có xét triển vọng đến 2030.

Mục tiêu phát triển thị trường than đề ra là chuyển nhanh hoạt động ngành than theo cơ chế thị trường, hội nhập với thị trường khu vực và quốc tế, có sự điều tiết của Nhà nước. Song việc xây dựng và thực hiện thị trường than còn chậm, thiếu đồng bộ theo thông lệ phát triển thị trường.

Sản lượng than tiêu thụ trong nước thời gian đã tăng lên đáng kể với nguồn cung cấp chủ yếu là trong nước, nhập khẩu còn chiếm tỷ lệ rất ít. Tuy nhiên, quan hệ này sẽ đang ngày càng mất dần khi nguồn than trong nước sẽ giảm đi, than nhập khẩu sẽ tăng lên. Việc quản lý nhà nước về thị trường than trong nước và nhập khẩu chưa rõ ràng, đặc biệt là cơ chế quản lý giá bán than cho các hộ tiêu thụ trong nước và giá xuất nhập khẩu. mặt khác, việc thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đối với ngành than quá chậm.

Năm đề xuất cho thị trường hóa năng lượng

Thị trường năng lượng Việt Nam để phát triển được bền vững, hiệu quả thì phải thiết kế lại luật chơi, cách chơi và người chơi. Năm đề xuất dưới đây là những giải pháp quan trọng đóng góp vào tiến trình này.

1- Với cải cách kinh tế thị trường thì việc cải cách bộ máy Nhà nước cũng hết sức quan trọng. Rõ ràng là thị trường không dung nạp được cơ chế xin cho, muốn dẹp bỏ được cơ chế này thì trước hết phải cải cách vai trò của Nhà nước. Việc tập trung vào cải cách doanh nghiệp nhà nước minh bạch và xóa bỏ độc quyền sẽ là một động lực tự nhiên góp phần thúc đẩy bộ máy nhà nước; chẳng hạn tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng chủ sở hữu, tách chức năng làm chính sách với chức năng giám sát thị trường nếu làm được như vậy thì việc cải cách và phát triển thị trường năng lượng Việt Nam sẽ được thúc đẩy một cách mạnh mẽ..

2- Công khai các dự án đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia đầu tư vào các lĩnh vực năng lượng.

3- Tăng nguồn vốn ngân sách nhà nước cho các dự án năng lượng nông thôn, miền núi, hải đảo góp phần phát triển kinh tế xoá đói giảm nghèo cho các khu vực này.

Sớm thành lập quỹ phát triển năng lượng để hỗ trợ đầu tư cho phát triển năng lượng mới và tái tạo, thực hiện các dự án công ích. Ưu tiên bố trí nguồn vốn tín dụng ưu đãi từ quỹ phát triển ODA, các nguồn vốn vay song phương khác của nước ngoài cho việc xây dựng phát triển thăm dò khai thác các nguồn năng lượng điện, than, dầu khí, năng lượng tái tạo.v.v….

4- Tập trung đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ quản lý, kỹ thuật, công nghệ lành nghề, đào tạo bổ sung đón đầu cho những ngành còn yếu, còn thiếu nhất là các ngành năng lượng mới, năng lượng sinh học, lọc hoá dầu, điện hạt nhân...  Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ mới theo hướng tập trung và chuyên sâu, phát triển đồng bộ tiềm lực khoa hoc – công nghệ ứng dụng cải tiến công nghệ nước ngoài, tiến tới sáng tạo công nghệ mới trong ngành năng lượng Việt Nam.

5- Về chính sách giá năng lượng: Ngành năng lượng là một hệ thống nhất, nhưng thời gian qua chúng ta thực hiện riêng lẻ các quy hoạch phân ngành, xây dựng giá các loại năng lượng độc lập, dẫn tới giá thiếu hài hòa, hợp lý. Cần xem chính sách giá năng lượng là một trong những đột phá mới, tiến tới xoá bỏ độc quyền, bao cấp trong sản xuất và tiêu dùng năng lượng.

Các kiến nghị định hướng xây dựng chính sách giá năng lượng

  • Chính sách giá năng lượng phải được xây dựng phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội và chính sách năng lượng quốc gia.
  • Định giá năng lượng phải kết hợp hài hoà giữa các mục tiêu: hiệu quả kinh tế, công bằng xã hội và khả thi về tài chính.
  • Chính sách giá năng lượng được xem là một trong những công cụ quản lý nhu cầu, bảo tồn năng lượng và bảo vệ môi trường.
  • Chính sách giá năng lượng phải được xây dựng trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa thị trường trong nước và thế giới.
  • Đề cao vai trò Nhà nước trong việc xác lập và kiểm soát thực hiện chính sách giá năng lượng, đặc biệt đối với dạng năng lượng mang tính độc quyền. Nhà nước chỉ điều tiết giá năng lượng thông qua chính sách thuế và các công cụ quản lý khác.
  • Về tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước, tăng thành phần doanh nghiệp tư nhân tham gia thị trường năng lượng. Việc cổ phần hoá trong ngành năng lượng, ngoài những doanh nghiệp mà Nhà nước buộc phải nắm giữ độc quyền và nắm cổ phần chi phối (như Tổng công ty truyền tải điện quốc gia; các nhà máy thủy điện lớn có chức năng đa mục tiêu,...), các doanh nghiệp còn lại cổ phần hóa mà Nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối để tạo điều kiện cho người lao động tự quyết định lấy hoạt động của mình theo cơ chế thị trường. Đẩy nhanh tốc độ tái cơ cấu, tốc độ cổ phần hoá, hoàn thiện tổ chức và quản lý Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam.
  • Xác định đúng vai trò và tầm quan trọng của ngành năng lượng Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng đề nghị Đảng, Nhà nước, sớm cho thành lập Bộ Năng lượng để giúp Chính phủ trong việc quy hoạch, phát triển, giải quyết các cơ chế chính sách và nhiều nhiệm vụ khác, trong đó có nhiệm vụ quan trọng là chỉ đạo việc tái cơ cấu, cổ phần hóa ngành Năng lượng nhằm phát triển thị trường năng lượng một các bền vững, lâu dài đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
  • Kiến nghị Bộ Chính trị cho sơ kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2007 của Bộ Chính trị “Về định hướng Chiến lược năng lượng quốc gia của Việt Nam đến 2020, tầm nhìn đến năm 2050”.

 TRẦN VIẾT NGÃI

Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam

(Trích tham luận tại hội thảo khoa học quốc tế về "Phát triển thị trường năng lượng Việt Nam" do Ban Kinh tế Trung ương cùng Bộ Công thương và Hiệp hội Năng lượng Việt Nam tổ chức mới đây tại Hà Nội)

: