Mua bán - sáp nhập (M&A) trở thành phương thức ngày càng quan trọng trong thu hút FDI. Nếu như dự án FDI mới phải mất khá nhiều thời gian, thì dự án FDI theo M&A sẽ tiết kiệm thời gian và chi phí vì đối tác nước ngoài chỉ cần thu thập đầy đủ thông tin về doanh nghiệp trong nước, tiếp xúc và đàm phán theo phương án được bên chào bán đưa ra thông qua tư vấn và môi giới để hai bên đạt được thỏa thuận “cùng có lợi”, thì vốn nước ngoài được chuyển vào nước ta mua cổ phần của doanh nghiệp.
Khi đã đạt được một tỷ lệ cần thiết thì tham gia quản trị doanh nghiệp. M&A giao thoa giữa đầu tư trực tiếp với đầu tư gián tiếp. Trường hợp M&A chỉ nằm trong khung khổ thị trường chứng khoán thì thuộc đầu tư gián tiếp, nhưng khi đã tham gia quản trị doanh nghiệp sẽ được coi là đầu tư trực tiếp. Từ năm 1988 đến 2010, M&A chủ yếu là giữa doanh nghiệp Việt Nam với nhau. Từ năm 2011 đến nay, M&A trở thành phương thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao trong vốn FDI đăng ký và vốn FDI thực hiện. Từ năm 2011 đến 2013, các tập đoàn của Nhật Bản tham gia thị trường M&A Việt Nam 2,5 tỷ USD vào ngành hàng tiêu dùng và tài chính - ngân hàng. Năm 2014, Việt Nam có 313 thương vụ M&A với 4,2 tỷ USD. Năm 2015 có 341 thương vụ với 5,2 tỷ USD. Năm 2016 có 611 thương vụ với 5,8 tỷ USD. Trong đó có những thương vụ tiêu biểu như Tập đoàn TCC mua lại hệ thống siêu thị Metro Việt Nam với giá 879 triệu USD; Tập đoàn Central Group mua Big C Việt Nam với giá 1,14 tỷ USD và thông qua công ty con Power Buy mua 49% cổ phần Công ty NKT để sở hữu Siêu thị Nguyễn Kim.
Mua bán - sáp nhập (M&A) trở thành phương thức ngày càng quan trọng trong thu hút FDI.
M&A bất động sản khá sôi động khi Asset cùng AON, BGN mua Keangnam Landmark với giá 723,82 triệu USD; Mapletree Investments mua lại Dự án Kumho Asiana Plaza từ liên doanh Kumho Industrial và Asiana Airlines với giá 215 triệu USD; New Life RE mua lại Khách sạn Duxton Hotel từ Low Keng Huat với giá 49,2 triệu USD. Năm 2018 (tính đến ngày 20/11), đã có 582 thương vụ M&A của nước ngoài với 7,6 tỷ USD, tăng 44,4% so với cùng kỳ 2017, chiếm 24,7% vốn đăng ký mới, vốn tăng thêm và mua cổ phần; chiếm 46% vốn thực hiện.
Đây là tỷ lệ khá ấn tượng. Hoạt động M&A đã trở nên sôi động hơn do đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước và do nhiều doanh nghiệp trong nước có đủ tiềm lực, sức hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài. Đây là xu thế đang tiếp diễn để Việt Nam trở thành thị trường M&A lớn trong khu vực. Đầu tư thông qua biên giới không góp vốn là phương thức FDI mới đã được thực hiện ở Việt Nam, sẽ nhanh chóng trở thành phương thức quan trọng đối với thu hút FDI. Chiến lược thương mại và đầu tư của TNCs được thực hiện bằng nhiều phương thức như trực tiếp hoặc thông qua chi nhánh tại một số quốc gia để thực hiện những dự án mới, thông qua M&A để nắm giữ cổ phần đến mức có thể tham gia quản trị doanh nghiệp theo một trong ba hình thức đầu tư chủ yếu: liên doanh, 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm biến đổi chuỗi cung ứng toàn cầu; robot thay thế một phần lao động của con người, công nghệ thông tin với big data đã tạo ra cuộc cách mạng về quản trị doanh nghiệp, do đó, các hình thức đầu tư truyền thống có xu hướng giảm dần, một số hình thức, phương thức đầu tư mới đã xuất hiện và đang trở thành phổ biến nhằm tiếp cận thị trường đầu tư có hiệu quả hơn. Sản xuất theo hợp đồng, thuê ngoài dịch vụ, nhượng quyền kinh doanh, cấp phép và quản lý là phương thức đầu tư mới.
Trong thời đại kỹ thuật số, thông qua FDI, TNCs hướng đến mục đích lợi nhuận cận biên thông qua tìm kiếm thị trường tiềm năng, mà không cần góp vốn, được gọi là Phương thức đầu tư nước ngoài không sử dụng vốn chủ sở (NEM) hoặc Hình thức đầu tư mới (NFI), đã được thực hiện ở nhiều nước khi dịch chuyển từ chuỗi cung ứng sản phẩm có giá trị gia tăng thấp sang chuỗi cung ứng sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn. Lý do là, NEM cho phép các TNCs điều phối hoạt động chuỗi cung ứng sản phẩm, tạo cơ hội cho các nhà sản xuất và cung ứng trong nước tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu; khoản “đầu tư” của nhà đầu tư nước ngoài thường bao gồm việc cung cấp thương hiệu, quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết kinh doanh...
Một số điển hình được Ngân hàng Thế giới (WB) viện dẫn là Apple (Mỹ) thuê Inventec (Đài Loan) sản xuất một số loại linh kiện thông qua hợp đồng gia công; thương hiệu và hệ thống quản lý Hyatt điều hành khách sạn thuộc sở hữu của doanh nghiệp Nepal; Intel (Mỹ) ký hợp đồng thuê ngoài với Wipro (Ấn Độ) để phát triển phần mềm. Mặc dù NEM mới được một số nước thực hiện, nên chưa có số liệu thống kê toàn cầu, nhưng Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) ước tính, doanh số hàng năm có thể cao hơn 2.000 tỷ USD.
Do vậy, FDI có hai loại: thông qua góp vốn đầu tư và không góp vốn. Phương thức FDI góp vốn và NEM không loại trừ nhau, mà bổ sung cho nhau. Một số nhà đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục thực hiện ba hình thức cổ truyền khi thực hiện dự án FDI ở nước khác, trong khi ngày càng nhiều TNCs chuyển sang áp dụng NEM, sau một thời gian nhận thấy doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, cần mở rộng kinh doanh, thì TNCs góp vốn bằng cách mua cổ phần hoặc tăng thêm vốn đầu tư. Các khoản đầu tư theo NEM đang có xu hướng gia tăng vì đưa lại lợi ích to lớn cho doanh nghiệp nước tiếp nhận FDI.
Chiến lược FDI thế hệ mới do WB, Công ty Tài chính quốc tế (IFC) và Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) hợp tác xây dựng đã lưu ý việc Việt Nam cần quan tâm đến NEM khi nhận định: “Tầm quan trọng của phương thức này đang ngày càng được công nhận rộng rãi. Khi Việt Nam dịch chuyển theo hướng tăng giá trị gia tăng và tăng hội nhập với các chuỗi giá trị toàn cầu, NEM đóng vai trò nòng cốt bằng cách cho phép các tập đoàn đa quốc gia điều phối các hoạt động trong chuỗi giá trị toàn cầu, trong khi hỗ trợ cho các nhà cung ứng trong nước, nhờ đó giúp tăng cường liên kết giữa nhà cung ứng Việt Nam và chuỗi giá trị toàn cầu”. -III- Vài năm gần đây, một số tập đoàn kinh tế của Việt Nam đã chủ động tiếp cận và thực hiện NEM. VinFast và Vsmart - hai thương hiệu của Vingroup là điển hình cho NEM.
Công ty TNHH Sản xuất và Kinh doanh VinFast (tên viết tắt của Việt Nam mang ý nghĩa Phong cách - An toàn - Sáng tạo - Tiên phong) được thành lập năm 2017, trụ sở tại Hà Nội, nhà máy sản xuất tại TP. Hải Phòng với diện tích 335 ha, có tổng vốn đầu tư 3,5 tỷ USD, VinFast đã hợp tác công nghệ với một số tập đoàn ô tô và linh kiện phụ tùng lớn của châu Âu như BMW, Siemens AG và Robert Bosch GmbH của Đức, Magna Steyr của của Áo và Hãng thiết kế Pininfarina của Ý; liên doanh sản xuất thân vỏ xe với Aapico Hitech của Thái Lan. VinFast đã đăng ký với Phòng đăng ký kinh doanh Frankfurt để thành lập một văn phòng đại diện tên là VinFast GmbH, đang làm thủ tục để đặt đại diện tại Thượng Hải (Trung Quốc) và Hàn Quốc.
Ngày 2/10/2018, VinFast giới thiệu 2 mẫu xe LUX A2.0 thuộc dòng sedan và LUX SA2.0 thuộc dòng xe thể thao đa dụng tại Triển lãm ô tô Paris 2018. Ngày 20/11/2018, VinFast tổ chức giới thiệu các mẫu xe VinFast tại Hà Nội Dự tính những chiếc xe đầu tiên được thiết kế dành riêng cho thị trường Việt Nam sẽ đến tay người tiêu dùng vào tháng 9/2019; chỉ 2 năm sau khi động thổ xây dựng nhà máy. Ngày 14/12/2018, tại Toà tháp Landmark 81 - TP.HCM, Vingroup ra mắt 4 dòng điện thoại thông minh thương hiệu Vsmart được sản xuất tại Nhà máy Cát Hải (Hải Phòng), sau chưa đầy 6 tháng kể từ khi Công ty VinSmart thành lập. Nhà máy được thiết kế và thi công theo Tiêu chuẩn quốc tế IPC-A-610 dành cho các nhà máy sản xuất sản phẩm điện tử, có công suất 5 triệu sản phẩm/năm cho giai đoạn I.
Hầu hết các khâu từ thiết kế, nghiên cứu và phát triển sản phẩm đến sản xuất do Công ty công nghệ hàng đầu Tây Ban Nha là BQ phát triển. Với việc sở hữu 51% cổ phần Công ty BQ, VinSmart có thể khai thác tối đa năng lực của đội ngũ chuyên gia cao cấp của Tây Ban Nha, thu hút nhiều nhà khoa học và chuyên gia từ các viện nghiên cứu và các công ty công nghệ hàng đầu trên thế giới, hợp tác với các hãng công nghệ lớn nhất thế giới như Qualcomm, Google nhằm ứng dụng công nghệ tiên tiến nhất trong lĩnh vực điện thoại thông minh. Vsmart một lần nữa đã cho thấy phương thức hợp tác đầu tư của Vingroup với một số tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới để sản xuất sản phẩm công nghệ cao trong thời gian khoảng 6 tháng từ khi bắt đầu sản xuất.
VinFast và Vsmart không chỉ tạo ra cách nhìn khá tích cực đối với doanh nghiệp Việt Nam, đủ sức hợp tác bình đẳng với những tập đoàn công nghệ lớn nhất thế giới, mà còn khai phá con đường mới trong hợp tác và đầu tư với nước ngoài bằng phương thức chuyển giao công nghệ, thiết kế kiểu dáng, mẫu mã, sản xuất sản phẩm, nhưng nhà đầu tư nước ngoài không góp vốn. Hy vọng rằng, nhiều tập đoàn kinh tế Việt Nam sẽ tiếp bước trên con đường mà Vingroup đã khai phá để rút ngắn thời gian công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại. Khi các phương thức đầu tư mới ngày càng gia tăng và chứng minh được tầm quan trọng tại Việt Nam, thì Chính phủ cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách và luật pháp để điều chính có hiệu quả các hiện tượng mới trong đầu tư nước ngoài.